Việc định giá tài sản có chỗ đứng quan trọng trong xác định tính chất, mức độ của từng tội danh xác thực của Bộ luật Hình sự, không những thế còn là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong bài viết này phân tích những ý kiến trái chiều trong những việc xác định giá trị thiệt hại của tài sản, từ đó đưa ra căn cứ đề xuất hướng dẫn tiến hành pháp luật hình sự.
Quy định về kết luận định giá tài sản trong pháp luật tố tụng hình sự
Việc xử lý hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được quy định từ Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985. Theo đó, ở một vài tội danh xác thực đã có quy định về hành vi “chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn”, từ đó, cho thấy việc xác định giá trị tài sản bị xâm hại là ràng buộc trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Qua những lần pháp điển hóa, BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đều quy định xác thực về giá trị tài sản bị xâm hại trong biến thành tội phạm.
Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự (BTTHS) năm 1988 đã ghi nhận: “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính chất mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”. Đồng thời, tại Điều 47 BLTTHS năm 1988 quy định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự cũng yêu cầu phải xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Tuy nhiên, Điều 48 BLTTHS năm 1988, Điều 64 BLTTHS năm 2003 khi quy định về chứng cứ đều không quy định căn cứ xác định giá trị thiệt hại của tài sản.
Ngày 02/3/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 26/2005/NĐ-CP về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự (Nghị định số 26/2005), trong những số đó quy định cụ thể về việc ban hành Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự. Sau đó, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định về Kết luận định giá tài sản và xem đây là một trong nguồn chứng cứ phải có trong công việc giải quyết vụ án hình sự liên quan đến tài sản bị thiệt hại. Để khắc phục một vài bất cập của Nghị định số 26/2005, ngày 07/3/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2018/NĐ-CP quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản, trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự (Nghị định số 30/2018), đồng thời, ngày 07/5/2018, Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số 43/2018/TT-BTC hướng dẫn một vài điều của Nghị định số 30/2018.
Việc xác định giá đối với vật, tài sản có công dụng đặc biệt
Đối với tài sản là gia súc, gia cầm, thú nuôi:
Khoản 1 Điều 217 BLTTHS năm 2015 quy định về tiến hành định giá tài sản như sau: “Việc định giá tài sản do Hội đồng định giá tài sản tiến hành. Phiên họp định giá tài sản rất có khả năng thực hiện tại nơi có tài sản được định giá hoặc nơi khác theo quyết định của Hội đồng định giá tài sản.”
Để xác định giá trị tài sản bị thiệt hại, Nghị định số 30/2018 đã quy định việc định giá phải thích hợp với giá thị trường của tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự với tài sản cần định giá tại thời điểm và nơi tài sản được yêu cầu định giá. Một trong các căn cứ định giá tài sản là giá thị trường của tài sản, rất có khả năng được xác định theo giá bán buôn, giá bán lẻ của tài sản cùng loại hoặc tài sản tương tự.
Quy định chung là như vậy, mặc dù vậy đối với cùng một số tài sản là gia súc, gia cầm hay thú nuôi thì việc định giá không được thực hiện đúng theo quy định trên mà phần lớn dựa vào nhận thức chủ quan của rất nhiều cơ quan, người tiến hành tố tụng để vận dụng trong thực tiễn.
Ví dụ: Trong vụ chiếm đoạt tài sản là gà chọi (gà đá), đây là gà trống giống hay được nuôi vốn để chọi ăn cuộc, do đó, gà chọi có giá cao hơn gà thịt thông thường, có con giá vài triệu đồng nhưng có những con gà có giá trị cả tỉ đồng. Cũng có những con chó nuôi được xem như thú cưng có giá trị từ 10 triệu đến trên 200 triệu đồng. Tuy nhiên, Hội đồng định giá chỉ xác định giá trị tài sản theo giá gà thịt, chó thịt với vài chục ngàn đồng/kg. Để bảo vệ cho quan điểm của mình, những người định giá cũng như những người tiến hành tố tụng cho rằng: Nếu xác định gà chọi có giá trị rất cao hơn gà thịt, đồng nghĩa với việc cho phép đánh bạc ăn thua bằng tiền, chính vì vậy không được phép tính giá gà chọi theo giá thị trường mà phải tính theo giá gà thịt và quan điểm này đang rất được tiến hành trong thực tiễn.
Theo tác giả, quan điểm trên là chưa phù hợp. Theo cách hiểu gà chọi là gà được nuôi riêng và vốn để mang đi chọi, việc chọi ăn cuộc không cần thiết phải là hình thức được thua bằng tiền hay hiện vật, bởi trong cuộc sống hiện đại xã hội, nhiều cuộc chọi gà được phép tổ chức trong các lễ hội dân gian. Nếu lạm dụng việc chọi gà để cá cược nhằm thu lợi bất chính thì tùy tính chất, mức độ mà bị xử lý theo quy định của pháp luật. Cũng như việc đánh bài, pháp luật không cấm nếu việc đánh bài đó không xảy ra tính sát phạt, không được phép thua bằng tiền hay hiện vật mà chỉ đơn giản là giải trí. Việc định giá gà chọi, thú nuôi với giá tính trên kilôgam bán tiêu dùng sẽ thiệt hại đến quyền của bị hại. Nhiều trường hợp, người thực hiện hành vi phạm tội khi trộm được gà chọi, thú nuôi đã bán với giá cao nhưng khi bị phát hiện thì chỉ nhận là bán với giá kilôgam thịt theo giá thị trường tiêu dùng nhằm chiếm đoạt tài sản và không hẳn chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật (bởi giá trị định giá không đủ định lượng hình thành tội phạm).
Có thể thấy, việc nhận thức và vận dụng pháp luật nói trên chưa đảm bảo lợi ích của bị hại, là kẽ hở khiến tội phạm không bị xử lý. Do đó, Liên ngành Trung ương cần phải có hướng dẫn việc định giá tài sản là gia súc, gia cầm, thú nuôi đúng với giá trị thực tế của tài sản bị xâm hại; kịp thời khắc phục thiếu sót nêu trên.
Về chứng thư, giấy xác định quyền tài sản:
Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tài sản là vật, nhưng có phải bất cứ vật nào cũng là tài sản hay không? Trên cơ sở lý luận cho rằng, thuộc tính tài sản là vật phải có giá trị thành tiền, là đối tượng trong trao đổi tài sản và khi chúng không còn hình thành và phát triển thì quyền sở hữu bị chấm dứt thì một vài vật không được phép xác định là tài sản. Điển hình như: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng ký xe máy… Giấy chứng nhận QSDĐ và tài sản gắn liền với đất chỉ đơn giản là một chứng thư và là một vật chứng chứng minh quyền sử dụng đất, không hẳn là pháp lý có giá và từ đó cho thấy một số loại giấy tờ, chứng thư trên không được phép xem như tài sản. Vấn đề này thích hợp với hướng dẫn tại Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân tối cao về thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt các pháp lý trên không được phép xác định là vi phạm pháp luật, chính vì một số loại pháp lý trên không được phép xem như tài sản. Thời gian qua, có rất nhiều trường hợp tranh chấp và đã chiếm đoạt trái phép những vật nói trên, khi đưa ra xác định giá trị tài sản thì không định giá, thậm chí dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc chiếm đoạt những vật trên, có đủ dấu hiệu khách quan của tội “cướp tài sản” hay tội “cưỡng đoạt tài sản” (quy định tại những điều 168, 171 BLHS năm 2015) nhưng vì không xác định những vật trên là tài sản nên các đối tượng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật không bị xử lý.
Tuy không hẳn là pháp lý có giá, nhưng hoàn toàn rất có khả năng xem giấy chứng nhận QSDĐ là vật. Điều này là hợp lý, bởi giấy chứng nhận QSDĐ hình thành và phát triển dưới hình thức vật chất nhất định, thậm chí có hình dạng xác thực (là tờ giấy) nằm trong khả năng chiếm hữu của con người (có thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), có giá trị sử dụng (được vốn để chứng minh quyền sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất). Việc giấy chứng nhận QSDĐ không thể tham gia vào giao dịch trao đổi mua bán không làm mất đi thực chất tài sản của nó. Có quan điểm cho rằng: “Việc Tòa án nhân dân tối cao coi giấy chứng nhận QSDĐ không hẳn là tài sản tạo ra nhiều hệ quả không hướng dẫn được về lý luận và thực tế, đồng thời làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích người sử dụng đất”.
Theo tác giả, giấy chứng nhận QSDĐ cũng như các giấy tờ, chứng thư pháp lý là một trong loại pháp lý có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự công nhận của nhà nước đối với người sử dụng đất hợp pháp. Việc chiếm giữ trái phép một số loại pháp lý trên ảnh hưởng không nhỏ đến quyền của chủ sở hữu. Là một vật được hình thành và phát triển do con người tạo ra với cùng một khoản giá thành nhất định (giấy, lệ phí..) nên nó có giá trị riêng. Nếu bị mất mát, hư hỏng, chủ sở hữu phải làm lại và phải tốn một khoản giá thành nhất định. Vì thế, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các chứng thư và pháp lý khác không được phép xác định là pháp lý có giá nhưng cũng cần xem đây là một loại tài sản, và giá trị của nó được xác định bằng giá thành làm lại giấy trải qua các khoản trích thu giấy và lệ phí nhất định.
Đối với tài sản là động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm:
Nghị định số 30/2018 quy định việc định giá tài sản là hàng cấm phải dựa trên ít nhất một trong căn cứ sau: Giá thị trường của tài sản mua bán không chính thức; giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, quyết định; giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp; giá trong tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá (nếu có); các căn cứ khác về giá hoặc giá trị của tài sản cần định giá.
Hiện nay chưa tồn tại cơ quan, tổ chức nào quy định về giá của rất nhiều loại động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm. Việc xác định giá chủ yếu dựa vào việc xác minh thực tế tại địa phương. Hơn nữa, khi ghi nhận thông tin về sự việc mua bán không chính thức thì cơ quan công dụng có phải xử lý hay không khi người đáp ứng thông tin đã thực hiện hành vi mua bán hoặc chứng kiến hành vi mua bán mà không báo cơ quan công dụng ngăn chặn kịp thời. Ở mỗi địa phương hoặc khu vực sẽ sở hữu giá khác nhau nên việc tiến hành giá không thống nhất, dẫn tới việc tiến hành pháp luật không công bằng. Cùng về một hành vi, đối với cùng một loài, một cá thể động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm thì ở địa phương này người vi phạm sẽ ảnh hưởng truy cứu trách nhiệm hình sự còn ở địa phương khác thì rất có khả năng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Một số kiến nghị
Những vướng mắc trong những công việc định giá tài sản như đã nêu là nguyên do tạo ra kết quả định giá tài sản không bảo đảm tính khách quan, xác thực và còn làm kéo dài thời gian, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giải quyết vụ án. Để đảm bảo việc nhận thức, tiến hành pháp luật được thống nhất trong thực tiễn, tác giả có một vài kiến nghị sau:
Một là, liên ngành Trung ương có hướng dẫn thống nhất thế nào tài sản; việc xác định giá trị tài sản đối với tài sản là gia súc, gia cầm, thú nuôi, chứng thư, giấy xác định quyền tài sản… bị chiếm đoạt trái pháp luật.
Hai là, ban hành quy định xác thực về giá trị đối với động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm khi bị xâm hại.
Để giữ được mục tiêu trong công tác cải cách tư pháp thì một trong nhiệm vụ đặt ra là phải “hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp” như nội dung Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Do đó, muốn nâng tầm chất lượng công tác định giá tài sản trong hoạt động tố tụng thì vấn đề quan trọng trước hết là cần gấp rút hoàn thành pháp luật trong lĩnh vực này./.